Kết nối mọi đường bay đẹp

Viếng thăm đền thờ Huyền Trân công chúa xứ huế

Ngôi đền tọa lạc ở phía Nam sông Hương, cách thành phố Huế chừng 7km, tương truyền là nơi danh thắng phước địa, nơi khí tinh anh của đất trời hội tụ.

Những thế kỷ trước, để ghi nhớ công ơn mở mang bờ cõi của các vị công thần khai quốc, triều đình và nhân dân Huế đã lập miếu thờ Đại Đế Vương ở làng Lịch Đợi, phường Đúc, thành phố Huế, trong đó có công chúa Huyền Trân.
Do chiến tranh và những biến thiên lịch sử, đến nay miếu không còn nữa. Vì vậy, đền Huyền Trân khánh thành năm 2007 là sự chuyển tiếp ý nguyện, lòng thành kính của nhân dân đến công chúa Huyền Trân. Đền khá rộng với quy mô 28ha, tọa lạc tại núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, phường An Tây.Toàn bộ ngôi đền được xây dựng nằm trên một trục thẳng, theo lối kiến trúc truyền thống với trụ biểu vươn cao, nền móng kiên cố, điện thờ tôn nghiêm. Đền xây dựng tuân theo phong thủy: phía sau tựa lưng vào núi Ngũ Phong, phía trước là hồ Trường Xuân soi bóng nhật nguyệt, sơn mạch tả hữu hai bên như bức trường thành.

Từ ngoài, du khách đã ấn tượng với bốn trụ biểu lớn, sau là ba sân lát gạch Bát Tràng. Qua các sân gạch, hồ nước, cổng tam quan là nội điện thờ công chúa. Bên trong đền đặt tượng đồng Huyền Trân ngồi trên ngai cao 2,37m. Hậu điện thờ các bậc công thần; phía sau có lầu bát giác, tượng ni sư, vườn bồ đề…

Bà sinh vào năm 1287 Vào năm 1293, vua Trần Nhân Tông thoái vị, hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi (tức là hoàng đế Trần Anh Tông). Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java (Nam Dương ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.

Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari . Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, đưa Huyền Trân về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.
Tháng 8 năm Mậu Thân (1308), Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm (1309), dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng 

Cuối năm Tân Hợi (1311), Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự 
Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là "Thần Mẫu" và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế.

Các triều đại sau đều sắc phong bà là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần".
Sau nữa là đền thờ vua Trần Nhân Tông, phụ hoàng công chúa Huyền Trân, vị vua có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Giữa đền là bức tượng vua bằng đồng đỏ nguyên chất, cao 3m, nặng hai tấn được đúc theo phiên bản lấy từ đền thờ các vua Trần. Cả hai tượng đồng công chúa và vua Trần Nhân Tông đều do các nghệ nhân phường Đúc - Huế cẩn tác.



Bậc cấp dẫn đến đền thờ vua có đôi rồng chầu hai bên. Đó là hình ảnh tượng trưng giấc mộng của đệ tử Bảo Sát cho ngày viên tịch ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông tại am Ngọa Vân - núi Yên Tử. Trong khuôn viên đền có nhiều công trình kiến trúc lớn nhỏ khác: tượng Di Lặc, miếu Sơn Thần, Thủy Thần… Bên phải đền có thiền viện Hương Vân. Tất cả tạo nên một trung tâm văn hóa ở chốn núi rừng thâm nghiêm.



Lên hết 246 bậc tam cấp, du khách sẽ tới đỉnh Ngũ Phong, nơi có lầu bát giác, tháp chuông ở độ cao 108m. Chuông Hòa Bình nặng tới 1,6 tấn, cao 2,16m, đường kính 1,26m. Trên thân chuông khắc tám chữ “Thế giới - Hòa bình - Nhân loại - Hạnh phúc” và hình ảnh tượng trưng của bốn ngôi chùa nổi tiếng gồm Giác Lâm (TP.HCM), Thiên Mụ (Huế), Diên Hựu (Hà Nội) và Trúc Lâm Yên Tử (Quảng Ninh). Tháp chuông mang ý nghĩa nguyện đem tiếng chuông hòa bình đến với năm châu bốn biển. Ở đây, khách được tự mình thỉnh chuông với những cầu mong tốt đẹp, bình yên.

Hàng năm, khách tham quan, chiêm bái về tham dự lễ hội đền Huyền Trân và các hoạt động văn hóa diễn ra từ mồng chín đến rằm tháng Giêng âm lịch.
Share on Google Plus

About Huỳnh Lâm

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét